Những ngày này 38 năm về trước, hơn 60 vạn quân xâm lược Trung Quốc đã bất ngờ tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta với chiêu bài “dạy cho Việt Nam một bài học” theo lời Đặng Tiểu Bình. Quân xâm lược không ngờ được rằng, tuy bị bất ngờ, nhưng với truyền thống quật cường, quả cảm, quân dân ta trên 6 tỉnh biên giới đã giáng trả bọn cướp nước những đòn chí mạng.
Ở Cao Bằng, hướng tiến công chính của quân Trung Quốc theo 2 ngả Thông Nông – Hà Quảng và Phục Hòa – Đông Khê. Huy động lực lượng kiểu lấy thịt đè người nên ngay từ những ngày đầu đối phương đã có nhiều mũi tiến khá sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Ngày 19/2, quân Trung Quốc đã áp sát thị xã Cao Bằng .
Tuy nhiên, ở một địa điểm cách cửa khẩu Tà Lùng 15km theo QL3 ngược ra, đó là đèo Khau Chỉa, thuộc địa phận thị trấn Hòa Thuận (Phục Hòa, Cao Bằng), ngày 17/2/1979, quân Trung quốc đã tấn công theo hướng này cỡ gần quân đoàn với rất nhiều xe tăng.
Sau khi nhanh chóng chiếm được cửa khẩu và thị trấn Phục Hòa, chúng tiếp tục đánh về hướng thị xã để hợp với cánh quân đánh Trà Lĩnh kéo ra tại đỉnh đèo Mã Phục theo kế hoạch định sẵn. Thế nhưng, đến đèo Khau Chỉa thì quân Trung Quốc đã bị chặn lại bởi Trung đoàn 567 cùng dân quân Cao Bằng. Lính Trung Quốc được hỗ trợ bởi xe tăng, pháo binh... trong suốt cuộc chiến nhưng không vượt nổi qua con đèo, mặc dù đơn vị này bị cô lập hoàn toàn và chiến đấu độc lập.
Ở đèo Khau Chỉa, gần như không còn bất cứ một dấu tích nào của cuộc chiến năm xưa. Hỏi những người dân xung quanh thì được biết thời gian đó họ chạy loạn hết, khi biết tin Trung Quốc đánh vào. Chẳng ai được chứng kiến 12 ngày đêm khốc liệt ấy.
Cũng thật may mắn, trong chuyến đi tìm những nhân chứng của cuộc chiến năm xưa tại xã Hưng Đạo, TP. Cao Bằng, chúng tôi được gặp ông Đinh Ngọc Phong, một cựu binh của Trung đoàn 567 từng chiến đấu tại đèo Khau Chỉa trong trận đánh 38 năm về trước.
Năm nay ông Phong đã 60 tuổi. Ông đã ra quân và vui thú với cuộc sống điền viên. Nhắc lại những kỷ niệm cũ, ánh mắt người cựu binh này lại rạng rỡ. Với ông, đó là những kỷ niệm không bao giờ quên trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình.
Đơn vị của ông Phong được thành lập năm 1976 ở Hà Bắc. Ông thuộc Đại đội 7, Tiểu đoàn 2. Sau một thời gian huấn luyện, ông Phong cùng đồng đội nhận lệnh hành quân lên đóng chôt trên biên giới Cao Bằng.
Trung đoàn 567 vốn là trung đoàn bộ binh, sau có thêm sự hỗ trợ của một tiểu đoàn pháo mặt đất thuộc tỉnh đội. Thời điểm xảy ra chiến tranh ngày 17/2/1979, đơn vị của ông đang đóng quân cách biên giới tầm 20km, ngay chân đèo Khau Chỉa.
Trước đó là những ngày nóng bỏng. Khu vực biên giới trở nên cực kỳ phức tạp. Phía Trung Quốc giở đủ các biện pháp phá hoại. Người Trung Quốc thường xuyên tìm cách lén vượt biên sang các làng bản bên Việt Nam, kích động lôi kéo bà con các dân tộc thiểu số làm nội gián.
Chúng còn cho một số bộ đội biên phòng phía bên kia giả làm bọn đầu trộm đuôi cướp, phục kích những chỗ mà cán bộ ta hay đi lại để bắt cóc đem về khai thác gây hoang mang dư luận. Đêm khuya chúng di chuyển cột mốc, chặn cả suối cho dòng chảy chuyển sang hướng khác…
“Từ năm 1978, chúng tôi đã chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên, cũng không thể đoán được là quân Trung Quốc có gây chiến với mình hay không, gây chiến lúc nào, mặc dù hàng đêm, chúng tôi thỉnh thoảng vẫn nghe thấy những tiếng nổ ì ầm ngay sát biên giới”, người cựu binh tâm sự.
Về sau, mọi người mới biết, ngay từ đêm 16/2, các tổ thám báo của Trung Quốc đã bí mật mang theo bộc phá luồn sâu, móc nối với những thành phần nội gián, thành lập các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu nhằm ngăn chặn quân Việt Nam. Đồng thời, chúng cũng bí mật cắt đường dây điện thoại để cô lập chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo của bộ đội ngay sát biên giới.
Mấy hôm sau, có người chạy loạn kể lại, sau khi vượt qua biên giới, lính Trung Quốc đã đào lên mấy cái hầm bí mật khá to, chứa rất nhiều súng đạn, quân trang. Theo một người dân, chúng đã đào và chôn cất ở đây khá lâu, chứng tỏ đã có âm mưu chiến tranh với Việt Nam từ trước.
5h sáng 17/2/1979, sau tiếng nổ liên hồi, xe tăng và xe bộ binh Trung Quốc đã nhất tề tràn ngập lãnh thổ Việt Nam. Không ai bảo ai, ông Phong cùng các đồng đội nhanh chóng tiến vào vị trí chiến đấu, dù lúc đó đường dây thông tin liên lạc đã bị cắt mất, không nhận được chỉ thị của cấp trên phối hợp chiến đấu.
“Các đơn vị của Trung đoàn 567 cùng với dân quân địa phương chiến đấu chống trả quyết liệt, suốt một dải từ biên giới Tà Lùng, sang đến nhà máy đường Phục Hòa, cho đến chân đèo Khau Chỉa, lính Tàu bị chặn đứng. Xe tăng, xe bộ binh Trung Quốc cái thì tan xác, cái thì lật ngửa pháo lên trời, cái thì bốc cháy lao vào bụi tre…
Một câu chuyện vui được kể lại, có anh dân quân người địa phương chập tối 18/2 lấy đâu được 1 khẩu K44, liền ngay lập tức tham chiến. Đến lúc chỉ còn 2 viên đạn, mới nhận ra là mình đang ở giữa thung lũng, 2 bên là 2 cánh bộ binh Trung Quốc đang tìm mọi cách để tiến sang.
Anh dân quân bắn vào mỗi bên 1 phát đạn, rồi nhanh chóng chạy vào trong hốc đá, thế là 2 cánh quân xâm lược cứ thế núp kín rồi bên này bắn bên kia. Đến khi bọn lính thông tin nhận ra được tín hiệu của đồng bọn, thì đã thiệt hại lớn về nhân mạng.
Mới đầu, quân xâm lược chỉ tìm đánh với các lực lượng vũ trang chốt giữ ở biên giới, nhưng đến lúc không tiến lên nổi, chúng quay sang điên cuồng đốt phá trả thù chẳng khác gì một đám giặc cỏ. Chúng đã đánh giá quá thấp sức chiến đấu và khả năng cơ động, linh hoạt của quân dân Việt Nam”, ông Phong tự hào thuật lại.
Đến ngày thứ 3, thì có 4 chiếc xe tăng chọc thủng phòng tuyến, chạy thẳng lên đèo Khau Chỉa. Đơn vị của ông Phong nhận lệnh phải tiêu diệt bằng được.
4 xe tăng lên đến giữa đỉnh đèo thì ngay lập tức đụng phải chướng ngại vật là 1 chiếc ô tô dựng sẵn cùng một đống cây cối. Chưa kịp xoay xở, chúng đã bốc cháy ngùn ngụt sau mấy quả đạn B41. Những tên lính trong tháp pháo nhảy xuống chạy trốn cũng nhanh chóng chịu chung số phận.
Sự kháng cự không hề nao núng của bộ đội và dân quân Việt Nam chốt trên hướng Khau Chỉa buộc Trung Quốc phải thay đổi chiến thuật. Chúng chia quân thành những đơn vị cỡ tiểu đoàn cơ động để tham gia vào các hoạt động tìm kiếm, khóa đường, lùng sục. Nhưng với sự cơ động và linh hoạt của các chiến sĩ, suốt cả tuần lễ, lính Trung Quốc vẫn không thể vượt qua con đèo này.
Ngày 23/2/1979, ông Phong cùng đồng đội nhận được tin quân Trung Quốc chuẩn bị một trận quyết đấu, mang một lực lượng lớn, dồn lính quyết mở thông đường qua Khau Chỉa về đèo Mã Phục hội quân. Mọi người nín thở chuẩn bị sẵn sàng, chờ đợi trận quyết đấu.
Chính trị viên đại đội tên Nguyễn Chí Cương cùng với mấy đồng động nữa chia nhau chốt giữ một nhánh đường phía bắc đèo Khau Chỉa, thì thấy có 3 chiếc xe tăng có in dòng chữ Bát Nhất tiến lại, có vẻ như lính Tàu sử dụng xe tăng đi thăm dò tình hình.
Ông Cương lặng lẽ ẩn nấp dưới giao thông hào gần đó, chờ xe đi qua, mới dùng súng B40 bắn, sau đó chạy thẳng lên đồi dưới làn đạn của giặc. 2 chiếc xe đi trước quay lại cứu đồng bọn đang bị mắc kẹt trong chiếc xe vừa bị bắn đang bốc cháy, trong phút chốc cũng chịu chung số phận. Trong trận đánh đó, ông Cương hy sinh khi quân xâm lược phát hiện ra vị trí ẩn nấp của mình ở trên núi.
Sáng hôm sau, cả đoàn xe tải nối đuôi nhau chạy vượt lên đèo. Trên xe ngoài lính tráng còn chất cả những bao hàng và những chiếc xe đạp hỏng, đó là những thứ chúng cướp được dọc đường. Chiếc xe đầu đã lọt vào trận địa phục kích mà ông Phong cùng đồng đội vẫn chưa được lệnh đánh.Chiều hôm đó, một tổ chiến sĩ khác chốt giữ lại thấy có xe chở đầy lính Trung Quốc chạy đến giao thông hào, rồi nhảy hết vào một bản ở gần đấy. Chốc chốc, chúng lại khiêng ra xe nào gà, nào vịt, nào lợn. Các chiến sĩ căm giận lắm nhưng chưa được lệnh nổ súng, đành phải nén lòng chờ đợi, không bắn vào nhóm này mà chờ những đơn vị lớn hơn.
Hàng chục con mắt và đôi tai chiến sĩ cứ căng ra và đổ dồn về phía thủ trưởng chờ đợi, chỉ sợ mình không kịp nghe lệnh để rút nụ xòe và tung lựu đạn xuống đầu địch. Và cứ mỗi chiếc xe chở lính Trung Quốc chạy qua tầm súng, các chiến sĩ lại thêm một lần hồi hộp chờ nổ súng.
Khi chiếc xe cuối cùng vào đúng vị trí khóa đuôi trên đèo thì tiểu đoàn trưởng ra lệnh bắn. Trên vai anh, quả B41 vọt ra khỏi nòng, cắm thẳng vào thùng xe và nổ tung. Trong quầng lửa màu da cam hiện rõ từng tên lính bị hất lên rồi ném xuống mặt đường nằm bất động. Phát B41 cũng là khẩu lệnh của trận đánh, tiếp đó là tiếng lựu đạn nổ, tiếng thủ pháo xen lẫn từng tràng liên thanh của AK dồn dập đánh địch.
Ở ngay vị trí chặn đầu, loạt đạn AK trúng ngay tên cầm lái, chiếc xe lảo đảo đâm vào vách núi rồi bật lại, xoay nửa vòng nằm chình ình chắn ngang đường. Đội hình 16 chiếc xe còn lại với hàng trăm tên lính nằm gọn trong tầm súng và biển lửa.
Những loạt đạn B40, B41 phóng xuống những chiếc xe bốc cháy và nổ tung liên tiếp. Những xe còn lại rối loạn, bóp còi inh ỏi tìm đường tẩu thoát, nhưng chạy đâu được khi đã lọt vào trận địa phục kích.
Lính Trung Quốc trên xe nhảy xuống chỉ kịp dúi đầu xuống sàn xe bắn trả hoặc nằm rạp xuống 2 bên đường tìm chỗ ẩn nấp. Từ trên cao, các chiến sĩ ta quăng lựu đạn, thủ pháo, bắn AK xuống. Chỉ một thời gian ngắn, xác lính đã la liệt giữa đèo Khau Chỉa.
Ông Phong cùng đồng đội đang đánh địch thì hàng trăm tên lính Trung Quốc đang chốt trên những mỏm đồi gần đó, nghe thấy tiếng súng nổ và ngọn lửa bốc cao dưới đường đèo đã bỏ luôn súng, rủ nhau chạy lên đồi cao nhìn xuống trận địa nơi đồng bọn đang bị tiêu diệt.
Nắm đúng thời cơ, trung đội trưởng cối 82 ly ra lệnh đánh. Hàng chục quả đạn đã được tính toán kĩ lưỡng bắn nối đuôi nhau dội lửa xuống đầu địch, tiêu diệt hàng chục, hàng trăm tên nữa.
“Chỉ tầm hơn tiếng, trận đánh đã kết thúc. Chúng nó dự định kéo cả trăm xe qua đèo, nhưng chỉ có 17 xe lọt vào trận địa phục kích trải dài trên đèo. Những chiếc khác thấy động đã quay đầu chạy tán loạn, và bị các đơn vị khác chặn đánh dọc đường. Tôi ước tính, đoàn xe 17 chiếc này cũng phải đi tong cỡ 2 tiểu đoàn. Chúng tôi lấy được thêm súng đạn, lương thực, chiến lợi phẩm tiếp tục những ngày tháng chốt giữ trên đèo Khau Chỉa. Đây là một trận đánh xuất sắc”, ông Đinh Ngọc Phong, cựu binh Trung đoàn 567 tự hào kể lại.
Tính ra, bên hướng Thạch An và hướng Thông Nông, quân Trung Quốc tràn qua được và đánh tới thị xã Cao Bằng, nhưng ở hướng Tà Lùng, chúng đã vấp phải bức tường bằng sắt, không thể tiến thêm bước nào nữa.
Cay cú, Trung Quốc dồn một lượng quân lớn ở thị xã Cao Bằng, rồi đánh ngược lên biên giới theo hướng đèo Mã Phục, từ đằng sau đánh lên, kết hợp với quân lính từ bên kia tràn sang bổ sung quân theo đường Tà Lùng.
Mục tiêu của chúng là bao vây và diệt cho bằng hết Trung đoàn 567 cùng với các lực lượng dân quân địa phương chốt giữ ở Khau Chỉa, trả cho bằng được mối hận ấy. Đêm 29/2/1979, ông Phong cùng các đồng đội được lệnh rút lui chờ thời cơ phản kích.
Trung đoàn 567 hành quân về đến Quảng Uyên lại đụng độ và bắn nhau với địch một trận long trời lở đất nữa, nhưng vẫn bảo toàn được lực lượng, rút về địa điểm ém quân đã định.
“12 ngày đêm chiến đấu trên đèo Khau Chỉa và những khu vực lân cận ấy, về sau tổng kêt, mới biết cả Trung đoàn đã tiêu diệt tổng cộng 34 chiếc xe tăng, hàng loạt xe bộ binh, thiết giáp, số lính Tàu tử trận thì không kể xiết, lượng thương vong lớn. Dù rằng bên mình cũng có không ít hy sinh mất mát, nhưng dù sao, chúng tôi cũng đã chiến thắng. Để Trung Quốc thấy rằng, người Việt Nam đâu dễ dàng bị chúng ức hiếp, đâu dễ dàng bị bắt nạt”, người cựu binh khẳng định, nét mặt bâng khuâng như đang chìm đắm trong những ký ức. Câu chuyện xảy ra đã 38 năm, nhưng với ông Phong và các đồng đội, nó như vừa mới hôm qua.
Sưu tầm (VTC News) (Theo ký ức của cựu binh Đinh Ngọc Phong cùng các đồng đội)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét